Nhiễm hbv là gì? Các công bố khoa học về Nhiễm hbv

Viêm Gan B là bệnh nhiễm trùng gan do virus HBV gây ra, có thể dẫn đến xơ gan và ung thư gan. Virus lây truyền qua máu và dịch cơ thể, thường qua sinh đẻ, quan hệ tình dục không an toàn, và dùng chung kim tiêm. Nhiều người nhiễm HBV không có triệu chứng rõ, nhưng có thể trải qua mệt mỏi, sốt, và vàng da. Chẩn đoán bằng xét nghiệm máu, điều trị gồm thuốc kháng virus. Phòng ngừa chủ yếu qua tiêm vắc-xin, sử dụng bao cao su, và tránh dùng chung kim tiêm. Tiêm phòng và nâng cao nhận thức giúp giảm tác động của HBV.

Giới thiệu về Viêm Gan B siêu vi B (HBV)

Viêm Gan B là một bệnh nhiễm trùng gan nghiêm trọng gây ra bởi virus viêm gan B (HBV). Đây là một trong những loại viêm gan virus phổ biến và có thể dẫn đến các bệnh lý gan mạn tính như xơ gan và ung thư gan. Ở nhiều quốc gia, HBV vẫn là một vấn đề y tế công cộng lớn, gây ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới.

Nguyên nhân và đường lây truyền của HBV

HBV được truyền qua đường máu và các chất dịch cơ thể. Những con đường lây truyền phổ biến bao gồm:

  • Truyền từ mẹ sang con trong quá trình sinh đẻ.
  • Quan hệ tình dục không an toàn.
  • Dùng chung kim tiêm hoặc các dụng cụ sắc nhọn bị nhiễm virus.
  • Chăm sóc y tế không an toàn trong những trường hợp như truyền máu và phẫu thuật.

Triệu chứng của bệnh nhiễm HBV

Nhiều người bị nhiễm HBV không có triệu chứng rõ ràng đặc biệt trong giai đoạn đầu của nhiễm trùng. Khi triệu chứng xuất hiện, chúng có thể bao gồm:

  • Mệt mỏi và yếu đuối.
  • Sốt.
  • Chán ăn và buồn nôn.
  • Đau bụng, đặc biệt là vùng gan.
  • Nước tiểu màu sẫm và phân nhạt màu.
  • Vàng da và lòng trắng mắt vàng (vàng da).

Chẩn đoán và điều trị HBV

Bệnh viêm gan siêu vi B thường được chẩn đoán thông qua xét nghiệm máu để phát hiện các dấu hiệu của HBV trong cơ thể. Một số xét nghiệm phổ biến bao gồm kiểm tra kháng nguyên bề mặt của viêm gan B (HBsAg), kháng thể kháng HBV và nồng độ HBV DNA.

Trong nhiều trường hợp, nhiễm HBV cấp tính không cần điều trị cụ thể và có thể tự khỏi trong vòng vài tuần đến vài tháng. Tuy nhiên, điều trị trở nên cần thiết trong trường hợp nhiễm trùng mạn tính để ngăn ngừa biến chứng và giảm nguy cơ mắc xơ gan hoặc ung thư gan. Các phương pháp điều trị bao gồm thuốc kháng virus như tenofovir và entecavir.

Phòng ngừa bệnh Virut viêm gan B

Phòng ngừa là chìa khóa quan trọng trong việc kiểm soát sự lây lan của HBV. Các biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất bao gồm:

  • Tiêm vắc-xin ngừa viêm gan B, đặc biệt là tiêm chủng cho trẻ sơ sinh và những người có nguy cơ cao.
  • Sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục để giảm nguy cơ lây nhiễm.
  • Tránh sử dụng chung kim tiêm và các dụng cụ sắc nhọn chưa được tiệt trùng.
  • Thực hành các biện pháp kiểm soát lây nhiễm trong các cơ sở chăm sóc y tế.

Kết luận

Nhiễm HBV là một thách thức sức khỏe quan trọng cần được chú trọng trong các chương trình y tế công cộng. Việc phát hiện sớm, quản lý điều trị hiệu quả và áp dụng các biện pháp phòng ngừa thích hợp có thể giúp giảm thiểu tác động của HBV đối với sức khỏe cộng đồng. Tiêm phòng vắc-xin và nâng cao nhận thức cộng đồng là hai phương tiện quan trọng trong việc hạn chế sự lây lan của loại virus này.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhiễm hbv":

Tỷ lệ hiện diện virus viêm gan B (HBV) (anti‐HBc, HBsAg và anti‐HBs) và nhiễm virus viêm gan D (HDV) ở 9006 phụ nữ sinh đẻ. Dịch bởi AI
Wiley - Tập 16 Số 2 - Trang 110-116 - 1996

Tóm tắt: Mẫu huyết thanh từ 9006 phụ nữ sinh đẻ tại Thụy Sĩ trong các năm 1990 và 1991 được thu thập trên khắp cả nước. Trong số phụ nữ này, 62,7% là người Thụy Sĩ và 37,3% có nguồn gốc từ các quốc gia khác. Các mẫu được sàng lọc ban đầu cho anti-HBc và nếu dương tính, thì được xét nghiệm thêm cho HBsAg, anti-HBs và anti-HDV. Anti-HBc được phát hiện ở 640 trong số 9006 phụ nữ (tỷ lệ chung là 7,1%; người Thụy Sĩ là 3,3%; người nước ngoài là 13,5%). Trong số 640 mẫu có anti-HBc dương tính, 61 mẫu (9,5%) dương tính với HBsAg (không có anti-HBs), 467 mẫu (73,0%) dương tính với anti-HBs (không có HBsAg) và 8 mẫu (1,3%) dương tính với cả HBsAg và anti-HBs. Còn lại 104 mẫu có anti-HBc dương tính mà không có HBsAg hoặc anti-HBs. 104 mẫu này, với phản ứng được gọi là “anti-HBc đơn độc”, chiếm 1,2% của toàn bộ dân số hoặc 16,3% của những người mẹ có anti-HBc dương tính. Tất cả đều âm tính với HBV DNA (PCR). Kháng thể anti-HDV chỉ được tìm thấy ở 5 phụ nữ. HBsAg được thấy trong 38 mẫu máu dây rốn từ những người mẹ có anti-HBc dương. Trong mẫu lớn này, chúng tôi đã quan sát thấy tỷ lệ lưu hành huyết thanh của nhiễm HBV khá cao. Các trường hợp chỉ phản ứng anti-HBc đơn độc, khi âm tính với HBV DNA qua PCR, có lẽ không truyền nhiễm tại thời điểm thu thập máu.

#Tỷ lệ hiện diện huyết thanh #virus viêm gan B #virus viêm gan D #anti‐HBc #HBsAg #anti‐HBs #nhiễm trùng không truyền nhiễm #PCR #Thụy Sĩ #phụ nữ sinh đẻ #mẫu máu.
Các thay đổi động của các dấu hiệu HBV và tải lượng HBV DNA ở trẻ sơ sinh sinh ra từ các mẹ HBsAg(+): sự dương tính của HBsAg hoặc HBV DNA tại thời điểm sinh có thể là một chỉ báo cho nhiễm HBV ở trẻ sơ sinh? Dịch bởi AI
BMC Infectious Diseases - - 2013
Tóm tắt Đối tượng nghiên cứu

Cả HBV DNA và sự hiện diện của HBsAg tại thời điểm sinh không phải là một chỉ số chính xác cho nhiễm HBV ở trẻ sơ sinh. Hiện không có dữ liệu nào về những thay đổi liên tục của các dấu hiệu HBV ở trẻ mới sinh có mẹ dương tính với HBsAg. Nghiên cứu đa trung tâm này nhằm quan sát những thay đổi động của các dấu hiệu HBV và tìm hiểu một chỉ số chẩn đoán sớm cho nhiễm trùng từ mẹ sang con.

Phương pháp

Một trăm bốn mươi tám mẹ HBsAg(+) và trẻ sơ sinh của họ đã được tuyển chọn sau khi mẹ ký vào mẫu đơn đồng ý tham gia. Các trẻ sơ sinh này đã nhận được liệu pháp miễn dịch kết hợp (immunoglobulin viêm gan B [HBIG] và vắc-xin viêm gan B) ngay sau khi sinh, và được theo dõi đến 12 tháng. Máu tĩnh mạch của các trẻ sơ sinh (0, 1, 7 và 12 tháng tuổi) đã được thu thập để xét nghiệm HBV DNA và các dấu hiệu HBV.

Kết quả

Trong số 148 trẻ sơ sinh tham gia nghiên cứu của chúng tôi, có 41 trẻ được phát hiện dương tính với HBsAg(+) và 24 trẻ dương tính với HBV DNA(+) tại thời điểm sinh. Chín trẻ đã được chẩn đoán nhiễm HBV sau 7 tháng theo dõi. Sự quan sát động của các dấu hiệu HBV cho thấy rằng HBV DNA và HBsAg giảm dần và cuối cùng chuyển sang âm tính ở những trẻ không bị nhiễm, trong khi ở những trẻ nhiễm HBV, HBV DNA và HBsAg vẫn dương tính liên tục, hoặc cao hơn vào cuối thời gian theo dõi. Tại tháng thứ 1, những trẻ có anti-HBs(+), mặc dù dương tính với HBsAg hoặc HBV DNA tại thời điểm sinh, đã bình phục sau 12 tháng theo dõi, trong khi tất cả chín trẻ có anti-HBs(−) được chẩn đoán nhiễm HBV. Anti-HBs(−) tại tháng thứ 1 cho thấy tỷ lệ khả năng dương tính cao hơn cho nhiễm HBV từ mẹ sang con so với HBV DNA và/hoặc HBsAg tại thời điểm sinh.

Kết luận

Sự âm tính của anti-HBs tại tháng thứ 1 có thể được coi là một chỉ báo nhạy cảm và sớm cho nhiễm HBV ở những trẻ sơ sinh có HBV DNA và HBsAg dương tính tại thời điểm sinh, đặc biệt là ở những trẻ có mức tải lượng HBV DNA và titer HBsAg thấp.

Trẻ sơ sinh tiếp xúc với HIV bị nhiễm EBV có khả năng duy trì phản ứng miễn dịch đối với vaccine HBV thấp hơn Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắtĐặt vấn đề

Tại các quốc gia ở châu Phi cận Sahara, nhiễm virus Epstein Barr (EBV) xảy ra ở trẻ em trong thời kỳ đầu đời. Mục tiêu của chúng tôi là điều tra các yếu tố liên quan đến việc nhiễm EBV và tác động của nhiễm EBV đến phản ứng miễn dịch thể dịch đối với vaccine HBV ở trẻ sơ sinh sinh ra từ những bà mẹ dương tính với HIV và đang điều trị thuốc kháng retrovirus tại Malawi.

Phương pháp

Tổng cộng có 149 trẻ sơ sinh tiếp xúc với HIV đã được đưa vào nghiên cứu theo chiều dọc này. Kháng thể EBV anti-VCA IgG đã được đo bằng phương pháp ELISA. Sự chuyển đổi huyết thanh EBV được công nhận có liên quan đến tình trạng vi rút - miễn dịch của mẹ, sự phát triển của trẻ sơ sinh và khả năng miễn dịch, cũng như phản ứng thể dịch với vaccine HBV.

Kết quả

Không có trẻ sơ sinh nào dương tính với EBV ở tháng thứ 6 (n. 52 đã được thử nghiệm). Hơn 1/3 trẻ sơ sinh (49/115 hoặc 42,6%) trong nghiên cứu sau 6 tháng đã chuyển từ âm tính sang dương tính ở tháng thứ 12. Ở tháng thứ 24, trong số 66 trẻ được thử nghiệm, chỉ có 13 trẻ vẫn chưa nhiễm EBV, trong khi 53 trẻ (80,3%) đã nhiễm EBV, làm tăng tổng tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh EBV lên 88,7% (102/115 trẻ sơ sinh). Việc chuyển đổi huyết thanh EBV có liên quan đáng kể đến trình độ giáo dục thấp của mẹ nhưng không ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ sơ sinh hoặc khả năng dễ bị nhiễm trùng. Mức độ HBsAb giảm và mất kháng thể nhanh chóng liên quan đến việc chuyển đổi huyết thanh EBV sớm.

Kết luận

Chúng tôi phát hiện ra thời điểm nhiễm EBV rất đa dạng với phần lớn trẻ sơ sinh sinh ra từ những bà mẹ dương tính với HIV nhiễm virus sau 6 tháng. Mức độ anti-HBs thấp hơn và có vẻ như suy giảm nhanh hơn ở những trẻ sơ sinh nhiễm EBV.

NGHIÊN CỨU CÁC DẤU ẤN HUYẾT THANH NHIỄM HBV, MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ HBsAg VÀ TẢI LƯỢNG VI RÚT Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN CHƯA ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2021-2022
  Đặt vấn đề: Viêm gan B mạn là nguyên nhân hàng đầu của bệnh gan, các dấu ấn huyết thanh đã được đánh giá về sự liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh và trong một số nghiên cứu gần đây cho thấy định lượng HBsAg có tiềm năng ứng dụng lâm sàng trong quản lý và theo dõi điều trị đối với bệnh nhân viêm gan B mạn. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ các dấu ấn huyết thanh nhiễm HBV, xác định mối tương quan giữa nồng độ HBsAg và tải lượng HBV DNA huyết thanh ở bệnh nhân viêm gan B mạn chưa điều trị tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 95 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm gan vi rút B mạn chưa điều trị đến khám tại Phòng khám gan, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ từ tháng 4/2021-4/2022. Bệnh nhân được tiến hành xét nghiệm định tính HBeAg, định lượng HBsAg, đo tải lượng vi rút HBV DNA, thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Trong số 95 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân có HBeAg+) là 27,4%. Nồng độ HBsAg trung bình trên 95 mẫu nghiên cứu là 3,6±0,94 log10 IU/mL, tải lượng vi rút HBV DNA là 4,83±1,86 log10 IU/mL. Có mối tương quan trung bình giữa nồng độ HBsAg và HBV DNA trên 95 mẫu nghiên cứu với r=0,57(p<0,001). Kết luận: nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ HBeAg(+) thấp hơn HBeAg(-), nồng độ trung bình HBsAg và HBV DNA ở nhóm bệnh viêm gan B mạn có HbeAg(+) cao hơn so với nhóm HBeAg(-), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, trong nghiên cứu này cho thấy mối tương quan trung bình giữa nồng độ HBsAg và HBV DNA.  
#Viêm gan B mạn #HBV DNA #định lượng HBsAg #HBeAg
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của thai phụ nhiễm hbv đẻ tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của thai phụ nhiễm HBV và xét nghiệm máu cuống rốn tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Tiêu chuẩn lựa chọn thai phụ có 01 thai sống, đủ tháng đến đẻ có HBsAg (+). Thiết kế mô tả cắt ngang, sử dụng SPSS 20.0 và R, phân tích tương quan Pearson và Anova Fisher. Kết quả cho thấy tuổi trung bình 27,6 ± 4,2, triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu cho viêm gan bao gồm phù, chán ăn, mệt mỏi; tỉ lệ mổ lấy thai 66,7%; xét nghiệm máu mẹ HBeAg(+) chiếm 45%, HBV DNA ≥ 5E+07 bản sao/ml chiếm 33,3%; máu cuống rốn tỉ lệ HBsAg(+) chiếm 53,3%, HBeAg(+) chiếm 38,2%; PBMCs của máu mẹ và máu cuống rốn tương quan thuận ở nhóm thai phụ có tải lượng vi rút thấp hơn 5E+07 bản sao HBV DNA/ml.Kết luận các triệu chứng lâm sàng của vi rút viêm gan B ở thai phụ không đặc hiệu cho chẩn đoán viên gan B; ở nhóm thai phụ có tải lượng vi rút thấp hơn 5E+07 bản sao HBV DNA/ml thấy có mối tương quan thuận có ý nghĩa giữa PBMCs của mẹ và máu cuống rốn.
#hbv #pbmcs #mang thai
ĐẶC ĐIỂM CÁC DẤU ẤN HBV Ở BỆNH NHÂN NHIỄM HBV MẮC U LYMPHO TẠI TRUNG TÂM HUYẾT HỌC VÀ TRUYỀN MÁU BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả các dấu ấn HBV (Hepatitis B Virus) của bệnh nhân nhiễm HBV mắc u lympho. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 25 bệnh nhân nhiễm HBV mắc u lympho điều trị tại Trung tâm Huyết học và Truyền máu - Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2020 đến tháng 7/2021 Kết quả: 23/25 bệnh nhân mắc u lympho non-Hodgkin (NHL); nam giới (78%); tuổi trung bình là 53,1±14,2; nhóm HBsAg dương tính chiếm 76%, còn 24% thuộc nhóm HBsAg âm tính và anti-HBc total dương tính. HBeAg và anti-HBe dương tính ở 23,5% và 35,3% bệnh nhân được xét nghiệm tương ứng. Tỷ lệ phát hiện HBV-DNA 85% bất kể tình trạng HBsAg trong những bệnh nhân được xét nghiệm, với giá trị thấp nhất là 1,69 logIU/ml, cao nhất là 8,59 logIU/ml, trung bình là 4,38 logIU/ml. Chúng tôi ghi nhận 1 trường hợp HBsAg âm tính, anti-HBs dương tính và phát hiện HBV-DNA trong huyết thanh. Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân có HBsAg dương tính chiếm tỷ lệ cao hơn so với bệnh nhân có HBsAg âm tính, anti-HBc total dương tính mắc u lympho. Việc tầm soát ban đầu nên được thực hiện đầy đủ các xét nghiệm để tránh bỏ sót nhóm đối tượng cần được dự phòng.
#Vi rút viêm gan B #u lympho Hodgkin #u lympho Non-Hodgkin
Mối liên quan giữa đa hình gen PD-L1 RS4143815 và nồng độ PD-L1 với nhiễm HBV mạn tính
Con đường tín hiệu ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1 đóng vai trò quan trọng trong nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá mối liên quan giữa tính đa hình gen PD-L1 rs4143815 và nồng độ PD-L1 đối với nhiễm virus viêm gan B mạn tính và biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính. Đối tượng nghiên cứu bao gồm 127 bệnh nhân viêm gan B mạn tính, 157 bệnh nhân ung thư gan do nhiễm virus viêm gan B và 240 người khỏe mạnh. Xác định kiểu gen PD-L1 rs4143815 bằng kĩ thuật tetra-primer-ARMS và xác định nồng độ PD-L1 bằng phương pháp ELISA. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa về tần suất kiểu gen của biến thể rs4143815 giữa nhóm bệnh và nhóm chứng cũng như giữa nhóm viêm gan B mạn tính và ung thư biểu mô tế bào gan. Nồng độ PD-L1 ở nhóm bệnh cao hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng và có mối liên quan đến tiến triển bệnh và biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B mạn tính.
#HBV #viêm gan B mạn tính #ung thư biểu mô tế bào gan #PD-L1 #rs4143815
Đánh giá hiệu quả ứng dụng Real time - PCR trong chẩn đoán và điều trị bệnh nhân nhiễm Hepatitis B virus (HBV) mạn tính tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định
Qua nghiên cứu và điều trị 87 bệnh nhân (BN) viêm gan mạn, tại tỉnh Bình Định, dựa trên định lượng HBV-DNA. Kết quả là: Tỷ lệ BN có định lượng HBV-DNA>106 copies/ml giảm từ 79% trước điều trị xuống còn lần lượt 3.7% và 4.9% sau điều trị 3 tháng, 6 tháng; tỷ lệ BN dương tính dưới ngưỡng tăng từ 0% trước điều trị lên 44.4% và 75.3% sau điều trị 3 tháng và 6 tháng. 9/81 BN có định lượng HBV-DNA không giảm. 5/9 trong số đó được chọn ngẫu nhiên đọc trình tự gen vùng RT và vùng Pre-S, xác định đột biến kháng thuốc. Kết quả 3/5 mang đột biến vùng RT, không phát hiện đột biến nào trên vùng Pre-S. Sau 6 tháng điều trị bằng thuốc kháng virus tenofovir 300 mg (Dark 300mg), các triệu chứng lâm sàng giảm ở mức thấp, tỷ lệ bình thường hóa men gan tăng cao, tỷ lệ BN có định lượng HBV-DNA dưới ngưỡng tăng cao (75,3%). Tần suất đột biến vùng RT khá cao (chiếm 60%). Vùng Pre-S không mang đột biến kháng thuốc ở BN viêm gan mạn tại tỉnh Bình Định.
#HbeAg #HbsAg #HBV-DNA #real-time PCR #định lượng #viêm gan mạn
Mối liên quan giữa tính đa hình gen mã hoá thụ thể vitamin D và biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính
Mục tiêu: Nghiên cứu mối liên quan giữa các gen mã hóa thụ thể vitamin D với tính cảm nhiễm HBV và tiến triển bệnh ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính. Ngoài ra nghiên cứu này khảo sát mối tương quan giữa các biến thể VDR với nồng độ vitamin D huyết thanh ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu bệnh chứng tiến hành trên 298 bệnh nhân [viêm gan mạn tính, CHB (n = 104), xơ gan, LC (n = 89), ung thư gan, HCC (n = 105) và 52 người khỏe mạnh (HC). Kỹ thuật ARMS-PCR được sử dụng để định kiểu gen của các biến thể VDR. Kết quả: Tần suất kiểu gen ApaI rs7975232 GT và allele T thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm người khoẻ mạnh [OR = 0,3 (0,1 - 0,6), p=0,006 và OR = 0,7 (0,5 - 0,98), p=0,048]. Kiểu gen VDR-AapI rs7975232 TT liên quan có ý nghĩa với quá trình tiến triển của bệnh (HCC vs. CHB: OR = 3,7 (1,1 - 13,5), p=0,04). Cả hai biến thể VDR ApaI và FokI có liên quan với nồng độ vitamin D trong huyết thanh ở bệnh nhân bị nhiễm HBV. Kết luận: Sự liên quan có ý nghĩa của biến thể VDR ApaI (rs7975232) với tính nhạy cảm với nhiễm HBV và hậu quả lâm sàng ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính. Ngoài ra, biến thể ApaI và FokI có thể là một yếu tố di truyền vật chủ giúp đánh giá sự thiếu hụt nộng độ vitamin D ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính.
#VDR #thiếu hụt vitamin D #nhiễm HBV #bệnh gan mạn tính
Nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ alpha fetoprotein huyết thanh với một số đặc điểm khối u và giai đoạn bệnh ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan có HBsAg (+)
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa nồng độ alpha fetoprotein (AFP) huyết thanh với một số đặc điểm khối u và giai đoạn bệnh ở bệnh nhân ung thư biểu mô (UTBM) tế bào gan nhiễm virus viêm gan B (HBV). Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang 180 bệnh nhân UTBM tế bào gan có HBsAg (+) điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân y 103. Định lượng nồng độ AFP huyết thanh theo phương pháp miễn dịch gắn enzyme. Xác định các đặc điểm khối u gan dựa trên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh (siêu âm, chụp CT đa dãy, chụp hệ mạch gan). Kết quả: 65,5% bệnh nhân UTBM tế bào gan nhiễm HBV có tăng dấu ấn AFP huyết thanh và đa phần phát hiện ở giai đoạn trung gian (60,0%) và tiến triển (23,3%) với kích thước u ≥ 5cm chiếm 79,8%, thể khối và nhân chiếm 66,1%, 19,4% bệnh nhân có tình trạng xâm lấn tĩnh mạch cửa (TMC). Nồng AFP huyết thanh tăng dần theo kích thước khối u và giai đoạn bệnh theo BCLC. Kết luận: Có mối liên quan giữa nồng độ AFP huyết thanh với kích thước khối u và giai đoạn bệnh theo phân loại BCLC.
#UTBM tế bào gan #AFP huyết thanh #nhiễm HBV
Tổng số: 22   
  • 1
  • 2
  • 3